Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo theo quy định của tố tụng hình sự; việc áp dụng biện pháp tạm giam nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội, ngoài ra biện pháp ngăn chặn này còn tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ án trong mỗi giai đoạn tố tụng (điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án). Căn cứ, thẩm quyền và các thủ tục đối với biện pháp tạm giam trong giai đoạn điều tra được quy định cụ thể tại Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; về thời hạn tạm giam đối với từng loại tội phạm, được quy định tại Điều 173 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuy nhiên trong thực tiễn không phải lúc nào cũng xác định được chính xác tội danh và điều khoản ngay từ khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can; rất nhiều vụ án sau khi điều tra, xác định bị can phạm vào tội nhẹ hơn hoặc nặng hơn tội danh đã khởi tố; phạm vào điều khoản nhẹ hơn hoặc nặng hơn điều khoản đã khởi tố, do đó thời hạn tạm giam cũng phải được thay đổi theo loại tội này.

Tại Điều 14 Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 quy định về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự quy định:

Điều 14. Tính thời hạn tố tụng trong trường hợp nhập vụ án hình sự, bị can phạm vào tội nặng hơn hoặc nhẹ hơn, khởi tố, điều tra bổ sung về một tội phạm khác

  1. Trường hợp nhập vụ án hình sự để điều tra theo quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự, thì thời hạn điều tra của vụ án và thời hạn tạm giam bị can được tính theo tội nặng nhất đã khởi tố đối với bị can. Thời hạn điều tra được tính từ ngày khởi tố vụ án đầu tiên.
  2. Trường hợp đang điều tra vụ án mà xác định hành vi của bị can phạm vào khoản có khung hình phạt nặng hơn trong cùng một điều luật và trường hợp quyết định thay đổi quyết định khởi tố bị can sang tội nặng hơn ở điều luật khác, thì thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam được tính theo tội nặng hơn nhưng phải trừ thời hạn đã điều tra, tạm giam trước đó.
  3. Trường hợp đang điều tra vụ án mà quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can về một tội phạm khác, thì thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam được tính theo tội nặng nhất. Tổng thời hạn điều tra không vượt quá thời hạn quy định tại Điều 172 Bộ luật Tố tụng hình sự; tổng thời hạn tạm giam theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng không vượt quá thời hạn điều tra.
  4. Trường hợp thay đổi quyết định khởi tố bị can từ tội nặng hơn sang tội nhẹ hơn hoặc xác định được hành vi của bị can phạm vào khoản có khung hình phạt nhẹ hơn trong cùng tội danh, thì thời hạn điều tra và thời hạn tạm giam được tính theo tội nhẹ hơn. Ngay sau khi thay đổi quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải trao đổi, thống nhất với Viện kiểm sát để xem xét, quyết định về việc áp dụng hoặc hủy bỏ, thay thế biện pháp ngăn chặn đối với bị can phù hợp với tội nhẹ hơn.”

Tại mục 16 phần II Công văn số 5887/VKSTC-V14 ngày 05/12/2019 giải đáp nghiệp vụ của VKSND tối cao có hướng dẫn “…Trường hợp đang điều tra vụ án mà xác định hành vi của bị can phạm vào khoản có khung hình phạt nặng hơn trong cùng một điều luật, thì Cơ quan điều tra cần ra lệnh tạm giam theo tội nặng hơn và phải trừ thời gian đã tạm giam bị can trước đó, không gia hạn tạm giam theo tội trước đó”.

Như vậy, Thông tư liên tịch số 04 và công văn số 5887/VKSTC-V14 đã có hướng dẫn về việc tính thời hạn tạm giam theo nguyên tắc: Bị can phạm vào loại tội nào thì tạm giam theo thời hạn của loại tội đó. Nếu trước đó bị can đã bị khởi tố, tạm giam theo thời hạn của tội danh nhẹ hơn, khoản nhẹ hơn mà quá trình điều tra xác định bị can phạm tội nặng hơn, khoản nặng hơn thì thời hạn tạm giam tính theo tội danh và điều khoản nặng hơn. Ngược lại nếu trước đó bị can bị khởi tố, tạm giam về tội danh, điều khoản nặng hơn nhưng quá trình điều tra xác định bị can phạm tội nhẹ hơn thì thời hạn tạm giam tính theo tội danh và điều khoản nhẹ hơn. Tuy nhiên cả Bộ luật tố tụng hình sự và Thông tư liên tịch số 04 đều không có hướng dẫn cụ thể về thủ tục, cách thức thực hiện việc thay đổi thời hạn tạm giam như thế nào nên trong quá trình thực hiện còn vướng mắc, chưa thống nhất. Chúng ta xem xét hai trường hợp sau đây:

Trường hợp thứ nhất: Ngày 01/02/2022 Nguyễn Văn A bị khởi tố về tội Cố ý gây thương tích theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự, A bị tạm giam thời hạn 02 tháng kể từ 01/02/2022 đến ngày 01/04/2022. Đến ngày 20/3/2022 Cơ quan điều tra xác định hành vi của A phạm vào tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại khoản 2 Điều 134 nên thời hạn điều tra của vụ án đương nhiên được xác định là 03 tháng, và theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Thông tư liên tịch số 04 thì thời hạn tạm giam đối với A được xác định là 03 tháng. Theo hướng dẫn tại công văn số 5887/VKSTC-V14 thì Cơ quan điều tra ra lệnh tạm giam theo tội nặng hơn và phải trừ thời gian đã tạm giam bị can trước đó; tuy nhiên việc ghi mốc thời gian trong Lệnh tạm giam còn có quan điểm khác nhau: quan điểm thứ nhất cho rằng phải ghi thời hạn tạm giam là 03 tháng kể từ ngày 01/02/2022 đến ngày 01/05/2022, nhưng trừ thời hạn tạm giam 02 tháng từ 01/02/2022 đến 01/04/2022 theo Lệnh tạm giam trước đó; quan điểm thứ hai cho rằng chỉ cần ra Lệnh tạm giam có thời hạn tạm giam là 01 tháng kể từ ngày 02/04/2022 đến 01/05/2022.

Trường hợp thứ hai: Ngày 01/01/2022 Nguyễn Văn B bị khởi tố về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 256 Bộ luật hình sự, B bị tạm giam thời hạn 03 tháng kể từ ngày 01/01/2022 đến 31/03/2022. Hết thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam nhưng còn có những tình tiết chưa được làm rõ nên Cơ quan điều tra đã đề nghị và được VKS gia hạn thời hạn điều tra 03 tháng và gia hạn thời hạn tạm giam lần 1 là 02 tháng. Quá trình điều tra, đến ngày 15/5/2022 Cơ quan điều tra xác định B có hành vi chứa chấp nhiều người thuộc khoản 2 Điều 256 Bộ luật hình sự, thuộc loại tội rất nghiêm trọng và thấy cần phải tính thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam theo tội nặng hơn để tiếp tục điều tra. Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 04 thì trong trường hợp này thời hạn gia hạn điều tra lần 1 được xác định là 04 tháng và thời hạn gia hạn tạm giam lần 1 là 03 tháng. Tuy nhiên thủ tục để thực hiện còn có quan điểm khác nhau: quan điểm 1 cho rằng Cơ quan điều tra cần có văn bản đề nghị và VKS ra quyết định gia hạn thời hạn điều tra 04 tháng và quyết định gia hạn thời hạn tạm giam 03 tháng (Lần 1) kể từ ngày 01/04/2022 và trừ đi thời hạn gia hạn điều tra, gia hạn tạm giam theo quyết định trước đó; quan điểm 2 cho rằng Cơ quan điều tra có văn bản đề nghị và VKS ra quyết định gia hạn thời hạn điều tra và gia hạn tạm giam thêm 01 tháng so với quyết định gia hạn trước đó.

Như vậy có thể thấy, mặc dù Thông tư liên tịch số 04 có quy định việc xác định thời hạn tạm giam đối với các trường hợp quá trình điều tra xác định bị can phạm tội nặng hơn hoặc nhẹ hơn tội phạm đã bị khởi tố theo nguyên tắc “Loại tội nào thì áp dụng thời hạn tạm giam đó” tuy nhiên do chưa có hướng dẫn cụ thể nên khiến các Cơ quan tiến hành tố tụng lúng túng khi áp dụng. Để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, thiết nghĩ các cơ quan có thẩm quyền cần có việc sơ kết, tổng kết đối với Thông tư liên tịch số 04, tổng hợp khó khăn, vướng mắc để có hướng dẫn cụ thể, chi tiết hơn đối với một số quy định nói chung và quy định về thời hạn tạm giam nói riêng như đã phân tích ở trên./.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *