Trước đây, tại Điều 72 của Hiến pháp năm 1992 có quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Điều 9 của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 đã cụ thể hóa quy định trên đây của Hiến pháp năm 1992 và coi nội dung xác định tại điều luật này là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự nước ta.
Tuy nhiên, nguyên tắc nêu ở Điều 72 Hiến pháp năm 1992 cũng như tại Điều 9 của BLTTHS năm 2003 và nguyên tắc suy đoán vô tội là hoàn toàn khác nhau về ý nghĩa của chúng. Trong trường hợp thứ nhất, đó là suy diễn về sự có tội. Ở trường hợp thứ hai, nguyên tắc suy đoán vô tội có địa chỉ là người bị buộc tội và sự suy đoán được đặt theo hướng suy diễn về sự vô tội của người bị buộc tội.
Tố tụng hình sự thẩm vấn dựa trên nền tảng quan hệ công, và vì vậy, nó có một hệ thống các nguyên tắc đặc trưng của mình; các nguyên tắc chủ đạo đặc trưng của nó là nguyên tắc công tố hay còn gọi là nguyên tắc về trách nhiệm khởi tố, nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc về xác định sự thật khách quan (xác định chân lý vật chất) và nguyên tắc suy đoán có tội.
Tố tụng hình sự tranh tụng dựa trên một hệ thống các nguyên tắc chủ đạo đặc trưng của nó là nguyên tắc dàn xếp (disposition) của các bên, nguyên tắc hợp lý, nguyên tắc về xác định sự thật pháp lý hay còn được gọi là sự thật do Tòa án và nguyên tắc suy đoán vô tội.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rất rõ sự tương phản giữa hai mô hình tố tụng kể trên, theo đó, sự tương phản được xác định qua các cặp phạm trù đối lập:
– Nguyên tắc thẩm vấn – nguyên tắc tranh tụng
– Nguyên tắc công tố (nguyên tắc về trách nhiệm khởi tố) – nguyên tắc dàn xếp
– Nguyên tắc pháp chế (hợp pháp) – nguyên tắc hợp lý
– Nguyên tắc xác định sự thật khách quan (chân lý vật chất) – nguyên tắc xác định sự thật pháp lý (sự thật do Tòa án)
– Nguyên tắc suy đoán có tội – nguyên tắc suy đoán vô tội.
Thực tiễn của các hoạt động điều tra, truy tố và xét xử cho thấy, có một khuynh hướng nhìn nhận bị can, bị cáo như là người đã được coi là phạm tội, dù tội trạng của họ chưa được chứng minh. Trong tâm lý học, khuynh hướng đó được gọi là khuynh hướng buộc tội, còn luật học thì gọi đó là “suy đoán có tội”. Đó chính là một trong những nguyên nhân của vấn đề án oan, sai hiện nay.
Nguyên tắc suy đoán vô tội là nguyên tắc của một loại hình tố tụng lấy các giá trị công bằng, bình đẳng làm nền tảng; là lá chắn quan trọng và hữu hiệu cho việc tôn trọng bảo vệ và bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập Hiến của Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 đặt ra quy định tại Chương II – “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” như sau: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (khoản 1, Điều 31 Hiến pháp năm 2013). Đó chính là nội dung đầy đủ của một nguyên tắc pháp lý quan trọng: Nguyến tắc suy đoán vô tội.
Để thi hành Hiến pháp, bảo đảm sự phù hợp của pháp luật tố tụng hình sự với Hiến pháp, BLTTHS tại Điều 13 đã quy định một nguyên tắc hoàn toàn mới của tố tụng hình sự Việt Nam, đó là “nguyên tắc suy đoán vô tội” với nội dung như sau:
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”.
Quy định của BLTTHS năm 2015 cho thấy rõ 3 nhóm nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội; những nội dung đó đồng thời cũng chính là những đòi hỏi, những điều kiện cần và đủ mà nếu thiếu chúng thì một người bị buộc tội phải được coi là vô tội.
Thứ nhất, đó là yêu cầu về trình tự, thủ tục, mà ở đây là trình tự, thủ tục của việc chứng minh tội và lỗi của người bị buộc tội. Yêu cầu này là hợp phần đầu tiên của nguyên tắc suy đoán vô tội.
Người bị buộc tội phải được coi là vô tội cho tới khi tội và lỗi của người đó được chứng minh. Nói khác đi, đây là nguyên tắc “lỗi không được chứng minh, đồng nghĩa với sự vô tội được chứng minh”. Yêu cầu này đã tạo ra sự an toàn pháp lý cho người bị buộc tội trong toàn bộ quá trình tố tụng hình sự. Yêu cầu đặt ra trong nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về quyền dân sự và chính trị năm 1966. Theo đó, “mọi người đều có quyền hưởng tự do và an ninh cá nhân, không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ. Người bị buộc là phạm một tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi tội của người đó được chứng minh theo pháp luật” (Điều 14.2).
Việc điều tra, truy tố và xét xử một người phải được tiến hành theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Nội dung này nhấn mạnh yêu cầu về mặt thủ tục pháp lý, là dấu hiệu quan trọng nhất của chế độ pháp quyền, theo đó, thủ tục công khai, minh bạch là đòi hỏi số một cho việc bảo vệ quyền con người chống lại sự truy bức tùy tiện. Công ước của Liên hợp quốc đã nêu trên khẳng định: “Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền tự do đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà pháp luật đã quy định” (Điều 9.1).
Theo tinh thần đó, tại nhiều điều luật cụ thể, BLTTHS năm 2015 đã nhấn mạnh các yêu cầu nghiêm ngặt về trình tự, thủ tục, coi đó cũng là một nguyên tắc của tố tụng hình sự. Điều 7 của BLTTHS xác định: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định”. Chứng cứ sẽ vô hiệu (Điều 87), hồ sơ phải được trả lại để điều tra bổ sung (Điều 236 và 280), bản án bị hủy để điều tra lại hoặc xét xử lại khi xét xử phúc thẩm (Điều 358) và trong thủ tục giám đốc thẩm (khoản 3 Điều 371, Điều 388) nếu phát hiện có vi phạm thủ tục tố tụng.
Dưới áp lực của đòi hỏi về tính thủ tục chặt chẽ, BLTTHS năm 2013 đã quy định trong một chương riêng về các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
Các biện pháp đó bao gồm: Ghi âm bí mật, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử (Điều 233). Trong những trường hợp đó, Bộ luật đã xác định chặt chẽ nhưng đảm bảo cho việc giữ bí mật nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp công nhận, bảo đảm và bảo vệ (Điều 21 Hiến pháp năm 2013). Theo đúng yêu cầu: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (khoản 2 Điều 14 Hiến pháp). Những yêu cầu pháp lý chặt chẽ liên quan đến các lý do hạn chế quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự được cụ thể hóa trong BLTTHS năm 2015 liên quan đến 3 yếu tố:
– Về loại tội: Các biện pháp điều tra đặc biệt chỉ được áp dụng đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền và các tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng (Điều 224).
– Về thẩm quyền, trách nhiệm quyết định và thi hành quyết định áp dụng biện pháp điều tra đặc biệt: Người có thẩm quyền này phải là Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên và phải được sự phê chuẩn của Viện trưởng VKSND cùng cấp (Điều 225).
– Về thời hạn áp dụng các biện pháp điều tra đặc biệt: Bộ luật xác định thời hạn này là 02 tháng, trường hợp phức tạp có thể gia hạn nhưng không quá thời hạn điều tra (Điều 226).
Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định nghiêm ngặt việc sử dụng các thông tin, tài liệu thu thập từ các biện pháp này.
Phải bảo đảm xác định và xem xét các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ, làm rõ các căn cứ xác định có tội và những căn cứ xác định vô tội, các tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Yêu cầu này được quy định tại Điều 10 của BLTTHS Việt Nam hiện hành.
Yêu cầu về chứng minh tội và lỗi của người bị buộc tội cũng đặt ra vấn đề trách nhiệm chứng minh. Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi rằng, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về phía buộc tội. Điều 15 BLTTHS quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Điều đó có nghĩa rằng, cơ quan tiến hành tố tụng không được bắt buộc bị can, bị cáo thực hiện trách nhiệm đó dưới bất kỳ hình thức nào. Tuy nhiên, ở đây cần chú ý đến một tình tiết liên quan đến chủ thể của trách nhiệm chứng minh. Theo quan điểm của chúng tôi, việc xác định: “trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng” là chưa thật sự chuẩn xác. Nguyên tắc này đặt ra trách nhiệm chứng minh của cơ quan buộc tội, người buộc tội.
Để bảo đảm cho yêu cầu này, Bộ luật Tố tụng hình sự đã đặt ra yêu cầu nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình và các hình thức trái pháp luật khác trong quá trình thu thập chứng cứ và thực hiện các hoạt động tố tụng khác. Nội dung này được quy định tại Điều 10 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án; không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội (Điều 98, BLTTHS năm 2015).
Quy định của BLTTHS năm 2015: “Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội” nói lên rằng, người bị buộc tội luôn luôn được quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa như Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sự đã xác định và thực hiện quyền đó bằng mọi biện pháp hợp pháp, trong đó có việc đưa ra chứng cứ chứng minh sự vô tội của mình.
Quyền chứng minh của người bị buộc tội thể hiện tính công bằng và minh bạch của tố tụng hình sự nhằm bảo đảm và bảo vệ công lý. So với các BLTTHS năm 1988 và năm 2003, theo BLTTHS năm 2015, những người tham gia tố tụng như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều có quyền đưa ra chứng cứ mà không chỉ là đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Đồng thời, những người này cũng có quyền trình bày ý kiến của mình về chứng cứ do các chủ thể tố tụng khác đưa ra, yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá chứng cứ đó. Người bào chữa ngoài các quyền kể trên còn có quyền thu thập chứng cứ, đưa ra chứng cứ, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản (khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015).
Người buộc tội cũng có quyền không trả lời các câu hỏi của cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng mà nhiều người còn gọi ngắn gọn là “quyền im lặng” của người bị buộc tội. Nội dung này bắt nguồn từ quyền không buộc phải chứng minh của bị can, bị cáo và trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan và người buộc tội, nhằm bảo đảm tự do và an toàn cá nhân cho người bị buộc tội trong quá trình tố tụng hình sự, phù hợp với Công ước quốc tế năm 1966: “Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu như được thông báo không chậm trễ và chi tiết, bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu được về bản chất và lý do buộc tội mình, không bị buộc đưa ra lời khai chống lại mình, không bị buộc phải nhận là mình có tội” (khoản 3 Điều 14 Công ước). Chúng ta đều biết rằng xuất phát từ yêu cầu này mà trong quá trình tiến hành các biện pháp điều tra như bắt, tạm giữ, tạm giam, nội dung về quyền của người bị buộc tội không khai báo chống lại mình đã được coi là một trong những thủ tục tố tụng bắt buộc. Chẳng hạn ở Mỹ có thủ tục “cảnh báo Miranda”.
Thứ hai, đó là yêu cầu rằng, tội và lỗi của người bị buộc tội chỉ có thể được xác định bởi một bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Yêu cầu này tạo thành hợp phần thứ hai của nguyên tắc suy đoán vô tội và kết hợp với hợp phần thứ nhất vừa nêu tạo nên nội dung tổng thể của nguyên tắc suy đoán vô tội. Đặt ra yêu cầu này, Hiến pháp và BLTTHS xuất phát từ chức năng và nhiệm vụ hiến định của Tòa án là bảo vệ công lý.
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 cũng đã xác định: “Bất cứ người nào do bị bắt hoặc bị giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền yêu cầu xét xử trước Tòa án nhằm mục đích để Tòa án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và trả lại tự do nếu việc giam giữ là trái pháp luật”. “Bất kỳ người nào đều có quyền đòi hỏi việc xét xử công bằng và công khai do một Tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội trong vụ án hình sự.” (các Điều 9.1, 9.2, 9.3, 14.1 Công ước).
Bản án kết tội phải dựa trên các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, chứng minh bị cáo có tội. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác nêu ra nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó. Những yêu cầu trên đây được quy định tại các điều từ 91 – 94, 98 của BLTTHS khi nói về chứng cứ, về lời khai của người làm chứng, của người bị hại, của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Thứ ba, đó là yêu cầu về logic tư duy đối với người và cơ quan tiến hành tố tụng. Theo đó, mọi hoài nghi về lỗi của người bị buộc tội cần được giải thích theo hướng có lợi cho người đó. Đây là hợp phần quan trọng thứ ba của nguyên tắc suy đoán vô tội.
Tại Điều 13 BLTTHS năm 2015 diễn đạt yêu cầu đó như sau: “Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”.
Quy định này xuất phát từ tình huống của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, khi có sự không rõ ràng trong việc xác định căn cứ của trách nhiệm hình sự, các tình tiết liên quan đến tội và lỗi của người bị buộc tội mà cả quá trình tố tụng và các nỗ lực của các cơ quan tiến hành tố tụng đã không thể làm rõ, dẫn đến tình huống hoài nghi, có mâu thuẫn giữa các hướng giải quyết mà chính các cơ quan đó không thể khắc phục được. Để chống khuynh hướng buộc tội theo kiểu tư duy: “thà làm oan còn hơn bỏ lọt”, BLTTHS năm 2015 khẳng định rõ: những hoài nghi đó nhất thiết phải được giải quyết theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Rõ ràng, đây là một nội dung quan trọng và trọng tâm của nguyên tắc suy đoán vô tội, phản ánh bản chất nhân đạo của Tố tụng hình sự dân chủ và pháp quyền, tạo ra lá chắn hữu hiệu cho sự an toàn pháp lý của người bị buộc tội.
Bản chất pháp lý và ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội
Con người và quyền con người là giá trị quan trọng và trở thành đối tượng ưu tiên bảo hộ của pháp luật trong tố tụng hình sự. Bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lá chắn quan trọng và vững chắc nhất đối với quyền con người, quyền công dân nhằm phòng ngừa và ngăn chặn những vi phạm từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng là việc thừa nhận và ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội. Suy đoán vô tội là nguyên tắc “kinh điển” nhất của tố tụng hình sự được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế quan trọng như Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948, (Điều 11.1); Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (khoản 2, Điều 14). Đặc biệt, bản Tuyên ngôn nêu trên đã coi nguyên tắc này là “phẩm giá của văn minh nhân loại”.
Ở phạm vi bao quát hơn và chắc chắn hơn, Nhà nước pháp quyền thừa nhận một nguyên tắc phổ quát của pháp luật khi nói về mối quan hệ giữa phạm vi đã được thể chế hóa và phạm vi không thể chế hóa. Đó là nguyên tắc suy đoán về tính hợp pháp của hành vi. Nguyên tắc này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với thái độ của xã hội, của Nh